
Những Đỉnh Núi Du Ca – Đọc sách online ebook pdf
Giới thiệu & trích đoạn ebook
Luôn cư trú ở những nơi cao nhất thuộc thế giới miền núi, kéo dài từ Vân Nam – Trung Quốc qua Đông Nam Á, người H’mông[1] là một trong những tộc[2] chủ nhân của những đỉnh núi đá hùng vĩ, nóc nhà toàn vùng cao rộng lớn, trong đó, Việt Nam chỉ là một thành tố địa vực[3]. Khu vực điền/sơn dã của quá trình “thăm hỏi” (chữ Từ Chi) dân tộc học văn học, theo đấy, trải rộng trên một diện cao.
Trong đó, tập trung vào các ngành H’mông ở bốn huyện cao trội Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc và Đồng Văn, hay còn gọi chung là cao nguyên đá Đồng Văn tỉnh Hà Giang. Trước 1945, có thể nói, bốn huyện cao nguyên đã có lúc từng hợp thành bức tranh hoàn bị về “một thế giới” mang “bản sắc” chính trị và tự trị của người H’mông. Điều này có thể thấy qua ranh giới vật chất cụ thể với các cổng giới. Cổng trời Quản Bạ được đặt định trên con đường mòn độc đạo từ vùng thấp lên vùng cao nhằm kiểm soát mọi sự xâm nhập bên ngoài vào “thế giới cao nguyên đá”.
Và để thêm phần khẳng định và duy trì “tuyệt đối” “vùng tự trị của người Mèo”, một cánh cửa gỗ nghiến dày 15cm được thiết lập vào năm 1939 được đặt ngay giữa cung đường hiểm qua cổng trời. Một cổng trời khác là Cán Tỷ, làm bằng đá, cao ngang đầu người, từng kiên cố tồn tại và chỉ bị gục ngã với bộc phá trong chiến dịch tiễu phỉ giữa thế kỷ XX. Đã một thời, sau những cánh cửa ấy, mọi sự phải tuân thủ theo “trật tự Mèo”.
Cũng giống như thân phận địa-chính trị biến động của các vùng biên, khối cao nguyên đá Đồng Văn và tỉnh Hà Giang là đất giao tranh của các tham vọng bá quyền, cả đồng bằng và miền núi. Chúng ta hãy cùng nhau sơ lược phác thảo lịch sử của sự co dãn vì phận “thay ngôi đổi chủ” của miền đất Hà Giang thời cổ và trung cận đại:
Vào thời nước Văn Lang xa xôi, đất Hà Giang còn là một vùng núi non rậm rạp, xa lạ và có lẽ không tồn tại trong căn não của những người Lạc Việt ở đồng bằng châu thổ sông Hồng và người Hán ở châu thổ Hoàng Hà và Dương Tử.
Thời Âu Lạc, ghi nhận sự nổi lên của họ Thục thuộc bộ lạc Tây Vu (tổ tiên cư dân gốc Tày Thái ngày nay) ở thượng lưu sông Lô, sông Gâm, tức miền Hà Giang, Tuyên Quang và Cao Bằng ngày nay. Hà Giang thời Âu Lạc, do vậy, là một cái gì đó, mà sử liệu trung đại thường biết đến thuộc bộ Tây Vu.
Thời Bắc thuộc, Hà Giang vẫn nằm trong địa phận của Tây Vu cho đến trước Đường đặt An Nam đô hộ phủ. Và có thể nói, vì quá xa cách, nên vùng đất ấy đã không nằm trong tư duy cai trị của người Hán. Từ đời Đường, quyền lực của Trung Hoa mới vươn lên đến bộ Tây Vu, và cũng chi ràng buộc danh nghĩa và lỏng lẻo, đặt làm châu ki-mi. Tóm lại, đó chi là thứ quyền lực được thực thi một cách yếu ớt và phần lớn tượng trưng (Đào Duy Anh 2003b).
Thời Lê Hoàn, lãnh thổ nước Việt chỉ tương ứng Trung Nguyên, tức chủ yếu các vùng châu thổ Bắc – Trung bộ, không bao gồm phần núi non ở Đông và Tây (Hoàng Xuân Hãn 2003). Hà Giang này nay, vào thời điểm đó, vì thế, vẫn là đất “vô chủ” (mắt nhìn từ đồng bằng).
Từ năm 1009, gắn liền với sự lên ngôi của vương triều Lý, bằng chính sách nhu viễn, chinh phạt gắn với phủ dụ khoan dung, và đặc biệt hôn nhân bang giao đã thu phục, thâu tóm dần các thủ lĩnh mạn Đông Bắc. Hà Giang về cơ bản thuộc về Đại Việt. Các đời sau, thường có sự sáp nhập hay phân chia hành chính các châu huyện thuộc đất Hà Giang, song về cơ bản, Hà Giang luôn thuộc trấn, châu, phủ, lộ Tuyên Quang.
Hà Giang có một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng. Minh Mệnh thứ 14 [1833], Nguyễn Công Trứ dâng tập Thỉnh an (Thực Lục 2004), trình bày vị trí chiến lược của vùng đất An Biên, Hà Giang. Theo ý đồ của Trứ, Hà Giang xét cả về chính trị – kinh tế đều có vị trí trọng yếu: “(…) như cái trục của cỗ xe, có thể lần theo nan quạt, tỏa ra bốn phưcmg: hoặc theo đường 34 hiện nay để đến các châu Mèo Vạc, Bảo Lạc; hoặc theo sông Gâm, sông Năng đến hồ Ba Bể [Bắc Kạn] thuộc vùng đất tỉnh Thái Nguyên thời đó; hoặc xuôi dòng sông Lô qua tỉnh lỵ Tuyên Quang ngày nay để đến tỉnh thành Hưng Hóa, hoặc ngược sông Lô đến châu Vị Xuyên để kiểm soát vùng mỏ Tụ Long” (Hồ Bạch Thảo a).
Nguyễn Công Trứ do đó, đề nghị tách Hà Giang thành một tỉnh riêng. Minh Mạng chấp nhận là phải nhưng lần lữa rồi bỏ qua. Người Pháp sau này nhận ra điều hợp lý mà trước đấy ông Tổng Đốc Hải Yên đã tính toán nên tách Hà Giang thành một tỉnh riêng. Và Hà Giang, thêm vài biến động nhỏ, nhưng vẫn tồn tại trong tư cách một tỉnh cho đến ngày nay. Trong đấy, cao nguyên đá Đồng Văn thì tương ứng với châu Đồng Văn thuở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (Vũ Minh Hương – Nguyễn Văn Nguyên – Philiphe Papin 2000).
Vậy, nhìn khái lược về lịch sử biến động của vùng đất Hà Giang cho đến khi thuộc về Việt Nam và trải qua các thời kỳ, có thể thấy, lịch sử địa lý của một quốc gia hiện đại, ở đây là trường hợp Việt Nam, cái mà cho đến ngày nay, chúng ta cứ luôn tưởng tượng rằng là đã rắn chắc từ cột cờ Lũng Cú đến mũi Cà Mau, là “không gì có thể đổi thay”, thực chất, là biến động và co dãn theo thời gian.
Cao nguyên đá Đồng Văn cũng vậy, chỉ là một “kiến tạo mới”, mang màu sắc địa-văn hóa khi khối cao nguyên ở đây, gồm bốn huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc, do cùng một diện địa mạo, nên được nhóm lại, liên lết thành một khối, được Unesco công nhận là Công viên địa chất toàn cầu vào năm 2010.
Việc chọn lựa một địa bàn nghiên cứu dân tộc học nói chung hay dân tộc học văn học nói riêng, bao giờ cũng mang tính chủ đích và được tiến hành cân nhắc. Mà dù vì bất kỳ lí do gì, với nhà dân tộc học, khu vực được chọn lựa và gắn bó nghiên cứu bao giờ cũng là “lý tưởng” đối với ý đồ, điều kiện và khả năng hoạt động của hắn ta.
Sách liên quan
Donate Ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe
Nhằm duy trì website tồn tại lâu dài và phát triển, nếu bạn yêu thích Taiebooks.com có thể ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe để thêm động lực nha.
Bạn cần biết thêm lý do để ủng hộ Taiebooks.com ?
- Website cần duy trì tên miền, máy chủ lưu trữ dữ liệu tải ebook và đọc online miễn phí.
- Đơn giản bạn là một người yêu mến sách & Taiebooks.com.