Sách này chia sẻ mục đích hỗ trợ người đọc cá nhân chưa có điều kiện mua sách giấy, hoàn toàn miễn phí và phi lợi nhuận. Sách được sưu tầm nhiều nguồn khác nhau mọi bản quyền thuộc về Tác Giả & Nhà Xuất Bản!

Giới thiệu & trích đoạn ebook

GIỐNG ĐỰC VÀ GIỐNG CÁI TRÊN TRIỀU ĐÌNH

Trên tột đỉnh quyền bính của nước Việt chỉ có một người đàn bà được sử ta cho là đã xưng “vương”: Trưng Trắc. “Vua nước/dân Việt” đó (Việt điện u linh tập, 1329) lại chỉ được vua Trần phong là “phu nhân” chỉ vì các ông không công nhận có vua đàn bà. Trước Trần có một cô bé (Chiêu Thánh) làm kẻ lót đường cho dòng họ nhưng cũng bị né tránh chữ “vương”, chỉ được gọi là Chiêu Hoàng. Chúng ta người đời nay vẫn không thể tranh luận được gì nhiều hơn.

Chúng tôi từng nhắc đến các dấu vết rất nhiều trong thời có sử về vai trò nổi bật của người phụ nữ Việt nắm giữ giềng mối truyền thống. Tuy nhiên lại cũng biết rằng việc cầm quyền thật sự là của người đàn ông thuộc dòng nữ chứ không phải là đàn bà. Mức độ phân chia uy thế, quyền lực giữa hai người đại diện giới tính này trên thực tế thời đại, cũng còn là điều phải phân vân.

Từ uy lực của truyền thống chuyển qua sức mạnh của giới tính

Chính vì nhận ra sự níu kéo của truyền thống nói trên mà chúng ta không lấy làm lạ như các sử quan nho thần về việc các ông vua Đinh, Lê và vài ông vua Lý đã lập nhiều hoàng hậu. “Hoàng hậu” chỉ là một cách gọi thuận tiện cho sử quan khi phải nói về vợ các ông vua. Đúng, đó chỉ là vợ các ông Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn…, giản dị có thế mà thôi. Tuy nhiên vẫn có điều nói thêm về các bà vợ này, những người được sử sách phô bày với vai trò khuất lấp nhưng không che giấu hết sự thật bên dưới các danh hiệu vương giả vay mượn của họ.

Ta chú ý đến một số hoàng hậu có chữ “quốc” kèm theo: Kiểu Quốc, Cồ Quốc của Đinh Tiên Hoàng, Trịnh Quốc của Lê Đại Hành, Lập Quốc, Tá Quốc của Lý Thái Tổ. Hẳn không phải các bà đó vốn có tên cùng âm, mang ý nghĩa xa lạ khác nhau nhưng do sự diễn dịch của sử quan, đã tạo ra sự đồng âm bắt buộc.

Sau ngàn năm Bắc thuộc, người thủ lãnh đã xưng vương thì các bà vợ phải được gọi với tên trang trọng của tầng lớp thượng lưu Trung Quốc. Trừ bà Ca Ông còn có dáng Di Lão gốc như của Đinh, tên các bà khác đều nghe rất kêu: Đan Gia, Trinh Minh, Đại Thắng/Thánh Minh (Dương hậu), Phụng Càn Chí Lý, Thuận Thánh Minh Đạo.

Vậy thì chữ “quốc” trên chỉ có nghĩa là “nước”, các bà trên là đại diện của một “nước”. Dấu vết tàn dư của chữ “quốc” ở cuối đời Trần là việc phong cho bà thái trưởng công chúa “Quốc” Hinh/Thiên Hinh ở “Lạng Quốc” (Lạng Sơn). Các ông vua có tôn hiệu chữ Hán dài dằng dặc, các bà vợ có tên sang cả, hẳn là do các quan học chữ Hán/nho (hay chính người Hán như trường hợp Hồng Hiến của Lê Hoàn) đặt ra.

Họ đã từng ghi chép sự kiện của triều đại dựa theo các biến động tương tự ở phương Bắc: chúng ta đã thấy sự tương đồng trong cuộc tranh chấp giữa Ngô Xương Văn và Đinh Bộ Lĩnh với chuyện giữa Hạng Vũ và Lưu Bang, chuyện Lê Hoàn cướp ngôi Đinh được diễn tả như cuộc binh biến Trần Kiều của Triệu Khuông Dẫn lấy ngôi nhà Hậu Chu.

Ý thức bắt chước cho được ngang tầm với người cai trị cũ khiến cho cái cổng ngoài của kinh đô Hoa Lư mang tên một biên ải của Trung Quốc, cửa Đồng Quan, nơi đó thay vì có quan quân bị lưu đày canh chừng sa mạc, lại có người đầy tớ (hoành) tước Phúc hầu tên Đỗ Thích, ngủ giữa trời nằm thấy sao rơi vào miệng, nhân dịp trở về nhà chính, liền làm việc thí nghịch tưởng là để hoàn thành thiên mệnh được trao.

Những cuộc phân tranh sau khi thành phần đế quốc Đường ở phương Nam sụp đổ cũng tạo nên những lãnh chúa địa phương mà hình tượng Thập nhị sứ quân không phải chỉ có 12 người, đã cho ta thấy tính chất manh mún của nó. Ngoài vua Đinh ở Hoa Lư, trên vùng Ái Châu còn ông Lê Lương làm chủ đất.

Thật ra đây là ông vua nhỏ, cũng như vô số vua nhỏ khác chiếm quyền trên thân xác tan rã của cựu phủ Đô hộ. Tính chất liên minh khu vực của thời kỳ hậu thuộc địa thấy rõ với nhiều trường hợp thời Ngô, Đinh, Lê. Ta biết được nhà Lý áp dụng liên hệ hôn nhân để lấy vây cánh là nhờ tài liệu ghi lại dồi dào hơn nhưng điều đó không phải đã không từng xảy ra về trước.

Các bà được coi là hoàng hậu ngang nhau có nguyên nhân hẳn là từ những thế gia ngang ngửa quyền hành trong vùng, những tập họp địa vực hoặc cũng tự xưng là “quốc”, hoặc được nâng cấp là “nước” để ngang tầm với phía thông gia. Và sử quan thời đại cũng lại có một mẫu hình phương Bắc để chính danh cho sử sự: lịch sử Xuân Thu Chiến Quốc với các “nước” tranh giành nhau trên quyền bính tột đỉnh mà không mất sự gián đoạn giao tiếp bên dưới, ở đây là của cựu thuộc địa phương Nam.

Bà Cồ Quốc có thể xuất thân từ tập đoàn Đinh cầm quyền kèm trong danh hiệu nước: (Đại) Cồ Việt – “đại” chỉ là chữ Hán của “cồ”; Kiểu Quốc là của tộc đoàn Kiểu thời tranh chiến mà Đinh thu phục; Trịnh Quốc là từ một tập đoàn Thái nào đó như ta sẽ thấy xuất hiện nhiều về sau. Tăng lục Trương Ma sáng tạo ra các danh hiệu này chăng?

Quan niệm về sự đối kháng tập đoàn trong tính cách chiến tranh khu vực ít nhiều gì cũng cho thấy rơi rớt của hình thức xung đột bộ lạc, trong đó tù binh nữ được coi như là chiến lợi phẩm, thể hiện nơi việc Lê Hoàn sử dụng người của chúa Chàm sau trận chiến 982.

Donate Ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe

Nhằm duy trì website tồn tại lâu dài và phát triển, nếu bạn yêu thích Taiebooks.com có thể ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe để thêm động lực nha.

Bạn cần biết thêm lý do để ủng hộ Taiebooks.com ?

  • Website cần duy trì tên miền, máy chủ lưu trữ dữ liệu tải ebook và đọc online miễn phí.
  • Đơn giản bạn là một người yêu mến sách & Taiebooks.com.

0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x