Sách này chia sẻ mục đích hỗ trợ người đọc cá nhân chưa có điều kiện mua sách giấy, hoàn toàn miễn phí và phi lợi nhuận. Sách được sưu tầm nhiều nguồn khác nhau mọi bản quyền thuộc về Tác Giả & Nhà Xuất Bản!

Giới thiệu & trích đoạn ebook

Sự kình địch về ý thức hệ và sự dính líu của Trung Quốc tại Việt Nam

Bất chấp những phàn nàn của Hà Nội về việc Trung Quốc không hỗ trợ đầy đủ cho sự thống nhất quốc gia của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), nhìn bề ngoài không có gì bất thường trong liên minh của họ từ cuối thời kỳ Stalin cho đến Geneva và đến thời kỳ Khrushchev. 30 Những thách thức và bất mãn nghiêm trọng đối với vai trò của Trung Quốc tại Việt Nam chỉ xảy ra sau khi những tranh cãi về ý thức hệ nổ ra giữa Bắc Kinh và Mátxcơva vào cuối những năm 1950—những khác biệt đã dẫn đến sự “chia rẽ” Xô-Trung được công khai rộng rãi.

Tầm nhìn của Stalin về vai trò của Trung Quốc ở Đông Dương đã hợp pháp hóa tuyên bố của Bắc Kinh là đứng đầu và quan trọng nhất trong phong trào cách mạng cộng sản châu Á. Việc Việt Nam nổi lên như một quốc gia cộng sản đã tạo cơ hội cho ban lãnh đạo ĐCSTQ thực hiện “nhiệm vụ” này.

Giới lãnh đạo Trung Quốc ngày càng lo ngại về vai trò của đất nước họ tại Việt Nam sau khi Khrushchev theo đuổi chính sách hòa hoãn với Hoa Kỳ sau năm 1959, điều mà họ coi là mối đe dọa đối với sự ủng hộ của Trung Quốc đối với các chương trình cách mạng châu Á. Do đó, Việt Nam không chỉ đóng vai trò là buồng lái cho xung đột Đông-Tây mà còn là sân khấu cho cuộc đối đầu ngày càng tăng giữa Trung Quốc và Liên Xô về cách giải thích của họ đối với các hệ tư tưởng Mác-Lênin và các chính sách tương ứng đối với phương Tây.

Vào đầu những năm 1960, triển vọng cách mạng ở miền Nam Việt Nam có vẻ khả quan. Chế độ Diệm ngày càng không được ưa chuộng (ngay cả với những người ủng hộ nước ngoài, bao gồm cả Hoa Kỳ), và sự bất mãn gia tăng trong cộng đồng Phật giáo không cộng sản ở miền Nam Việt Nam sẽ lên đến đỉnh điểm trong vụ tự thiêu công khai năm 1963 của các nhà sư Phật giáo. Những sự kiện này đã báo trước sự sụp đổ (với sự đồng lõa của chính quyền Kennedy) và việc giết chết chính ông Diệm.

Với bằng chứng ngày càng tăng về tình trạng bất ổn đa đảng đang gia tăng ở miền Nam, các nhà lãnh đạo Trung Quốc bắt đầu thay đổi quan điểm của họ, thừa nhận với nhau rằng họ đã không đánh giá đầy đủ hoàn cảnh đặc biệt ở miền Nam Việt Nam và do đó đã kết luận sai rằng việc sử dụng đấu tranh vũ trang chống lại chế độ của ông Diệm là quá sớm.

31 Tháng 12 năm 1960, Trung Quốc trở thành chính phủ nước ngoài đầu tiên công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng (Việt Cộng) ở miền Nam Việt Nam. Vài tháng sau, trong cuộc gặp với Phạm Văn Đồng, thủ tướng VNDCCH, Mao sôi nổi nói về các cuộc đấu tranh vũ trang do Hà Nội phát động, tự tin dự đoán rằng người Mỹ không thể ngăn cản người Việt Nam tiến hành cách mạng ở miền Nam.

Bắc Kinh có nhiều lý do để ủng hộ chiến lược mới của Hà Nội nhằm giải phóng miền Nam Việt Nam. Chế độ CHND Trung Hoa ngày càng hướng tới chủ nghĩa cấp tiến chính trị, bắt đầu bằng việc Mao lên án những người trong cuộc ủng hộ hòa bình và hòa giải trong các vấn đề đối ngoại của Trung Quốc cũng như hạn chế viện trợ cho các phong trào giải phóng dân tộc của các nước khác, do những khó khăn kinh tế của chính Trung Quốc.

Mao phỉ báng điều mà ông coi là các hoạt động phản cách mạng của “chủ nghĩa xét lại” thúc đẩy “ba nhân nhượng và một giảm bớt”—tức là nhân nhượng chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa xét lại, và các phần tử phản động quốc tế và cắt giảm hỗ trợ cho các phong trào giải phóng dân tộc. 33 Đối với Mao, những ý tưởng này gợi lại những ký ức tồi tệ: Sự ủng hộ hờ hững của Khrushchev đối với Bắc Việt Nam và những khó khăn của Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam khiến ông nhớ lại trải nghiệm bực bội của chính mình với sự ủng hộ hết lần này đến lần khác của Stalin trong cuộc cách mạng Trung Quốc.

Tại Phiên họp toàn thể lần thứ X của Đại hội VIII ĐCSTQ (tháng 9-1962), lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố Trung Quốc phải “giương cao ngọn cờ phản đế” ủng hộ các cuộc đấu tranh vũ trang ở Nam Việt Nam và Lào chống chủ nghĩa đế quốc, phản động, phản cách mạng. phong trào, và chủ nghĩa xét lại tồn tại. 34 Chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam bắt đầu chuyển hướng triệt để vào cuối năm 1962 và đầu năm 1963. Sự ủng hộ mạnh mẽ cho “các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc” ở Đông Dương và những nơi khác đã trở thành trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Viện trợ trực tiếp của Trung Quốc cho Bắc Việt Nam cũng tăng lên tương ứng.

Sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Bắc Kinh vướng vào những lo ngại về an ninh của chính họ sau khi Hoa Kỳ mở rộng can dự vào Việt Nam. Trung Quốc hình dung mình sẽ tiếp tục đối đầu quân sự với Hoa Kỳ, một cuộc đối đầu bắt nguồn từ Triều Tiên và kéo dài qua các cuộc đối đầu ở eo biển Đài Loan vào cuối những năm 1950. Tuy nhiên, trong khi Hoa Kỳ tự coi mình là người chiến thắng trong các cuộc xung đột đó, thì Trung Quốc lại tin rằng Hoa Kỳ đã không đạt được các mục tiêu chiến lược của mình. Giờ đây, giới lãnh đạo Trung Quốc coi Mỹ đang mở rộng thù hận lịch sử chống chế độ cộng sản Trung Quốc sang Việt Nam.

Từ quan điểm của Trung Quốc, việc Bắc Kinh ủng hộ cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của Hà Nội sẽ phá vỡ “vòng vây” của đế quốc Mỹ và các đồng minh của họ và do đó tăng cường an ninh của Trung Quốc. 35 Sự kiện Vịnh Bắc Bộ năm 1964 đã thuyết phục các nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng Bắc Kinh cần chuẩn bị cho việc Mỹ có thể mở rộng chiến tranh ra miền Bắc Việt Nam. Hai tuần sau, tại cuộc họp Ban Bí thư Trung ương của ĐCSTQ, Mao tuyên bố rằng Mỹ đang lên kế hoạch cho một cuộc chiến tranh xâm lược mới chống lại Trung Quốc và do đó Trung Quốc cần chuẩn bị cho chiến tranh.

Donate Ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe

Nhằm duy trì website tồn tại lâu dài và phát triển, nếu bạn yêu thích Taiebooks.com có thể ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe để thêm động lực nha.

Bạn cần biết thêm lý do để ủng hộ Taiebooks.com ?

  • Website cần duy trì tên miền, máy chủ lưu trữ dữ liệu tải ebook và đọc online miễn phí.
  • Đơn giản bạn là một người yêu mến sách & Taiebooks.com.

0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x