
25 Năm Theo Dòng Kinh Tế Việt Nam – Đọc Sách Online Ebooks PDF
Giới thiệu & trích đoạn ebook
Chương II: LÃI SUẤT VÀ TỶ GIÁ
I. LÃI SUẤT
LÃI SUẤT: CHUYỆN KHÔNG THỂ XEM THƯỜNG (1994)
Sử dụng lãi suất như một công cụ của chính sách tiền tệ để kích thích tăng trưởng kinh tế hay để kiểm soát lạm phát là hành động thông thường của các Ngân hàng Trung ương. Tăng hay giảm lãi suất có thể thực hiện một cách trực tiếp, chẳng hạn khi Ngân hàng Trung ương tăng hay giảm lãi suất tái chiết khấu hoặc cho vay lại. Đây là một công cụ điều tiết và điều hướng tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các ngân hàng thương mại và là một tín hiệu rõ ràng cho các ngân hàng thương mại biết loại tín dụng nào Ngân hàng Trung ương khuyến khích và loại nào không. Ít khi Ngân hàng Trung ương áp dụng đồng loạt việc tăng lãi suất chiết khấu hoặc cho vay lại cho các loại tín dụng, trừ trường hợp phải đối phó với tình hình lạm phát phi mã, đòi hỏi phải giảm toàn bộ khối lượng tín dụng cho nền kinh tế.
Việc tăng tỷ lệ dự trữ tối thiểu bắt buộc của các ngân hàng thương mại dưới hình thức tiền gởi tại Ngân hàng Trung ương được áp dụng với mục tiêu trực tiếp là làm giảm khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng thương mại cho doanh nghiệp cũng dễ dàng đưa tới hậu quả là mức lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại sẽ tăng lên vì các họ phải bù đắp các phí tổn tăng lên do việc phải bất động hóa một lượng tiền huy động phải trả lãi dưới hình thức dự trữ tối thiểu bắt buộc mà thông thường không được Ngân hàng Trung ương trả lãi, hoặc trả lãi rất thấp. Khi Ngân hàng Trung ương tăng tỷ lệ dự trữ tối thiểu bắt buộc, hệ thống ngân hàng thương mại hoặc phải chấp nhận một mức lợi nhuận giảm đi hoặc phải tăng lãi suất cho vay.
Hệ quả tất nhiên của việc tăng lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng là các doanh nghiệp sẽ giảm việc đi vay tại các ngân hàng thương mại và điều đó có nghĩa là khối lượng tín dụng trên toàn nền kinh tế sẽ giảm đi, khối tiền tệ cũng sẽ bị thu nhỏ lại và đó là một phương cách mà các nhà xây dựng chính sách theo học thuyết tiền tệ (monetarism) áp dụng nhằm chống lạm phát. Ngoại trừ trong tình trạng lạm phát phi mã, những điều chỉnh tăng lãi suất thông thường chỉ trong khoản ¼ điểm hoặc 1 điểm (0,25% – 1%) là đã có thể đạt được các tác dụng mong muốn.
Trong điều kiện hoạt động bình thường, việc giảm khối lượng tín dụng cung ứng của hệ thống ngân hàng có nghĩa là thanh khoản của hệ thống tăng lên do hai hệ quả: (1) Ngân hàng thương mại thu nợ về và không cho vay lại (2) Ngân hàng thương mại không cung cấp thêm những khoản tín dụng mới. Các khoản tiền thừa của hệ thống ngân hàng thương mại được gởi tại Ngân hàng Nhà nước. Nhu cầu thanh khoản của toàn hệ thống ngân hàng không bị ảnh hưởng.
Tuy nhiên, tình hình gia tăng lãi suất hiện nay trong hệ thống ngân hàng Việt Nam lại cho thấy nhiều tín hiệu đáng quan ngại. Các biện pháp mà Ngân hàng Nhà nước áp dụng không những chỉ tác động lên khối lượng tín dụng khả dụng của các ngân hàng mà còn gây ảnh hưởng lên tỷ lệ thanh khoản và khả năng thanh toán của họ. Đây là một điều nguy hiểm. Khi lãi suất cho vay liên ngân hàng có lúc đã lên đến con số khó tin là 30%/năm, đó là tín hiệu cho thấy rằng tình hình thanh khoản của nhiều ngân hàng thương mại là đáng báo động.
Đây cũng là những thông tin phản hồi cho thấy là liều lượng của các giải pháp vừa được áp dụng trở nên quá mạnh đối với khả năng chịu đựng của hệ thống ngân hàng. Nói một cách hình tượng, chúng ta có nguy cơ dùng thuốc quá liều. Khối lượng tín dụng chắc chắn sẽ giảm (đây là mục tiêu mà Ngân hàng Nhà nước hướng đến, nhưng như trên đã phân tích, mục tiêu này cũng cần có tính chọn lọc), đồng thời thanh khoản của các ngân hàng thương mại cũng đang sút giảm nghiêm trọng ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của các ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại có quy mô hoạt động nhỏ.
Các tin tức trên báo chí đã cho thấy hiện tượng cạnh tranh lãi suất đang xảy ra một cách khốc liệt giữa các ngân hàng thương mại, cho thấy cơn khát thanh khoản đã trở nên nguy hiểm. Mức lãi suất huy động đã tăng 50%, từ 8%/năm đến 12%/năm và có khả năng tăng cao hơn nữa, nếu Ngân hàng Nhà nước không ban hành một quyết định hành chính ngăn cấm các ngân hàng thương mại nâng mức lãi suất cao hơn 12%, một quyết định đang gây tranh cãi vì các ngân hàng thương mại hiện đang vay lại của Ngân hàng Nhà nước với lãi suất 15%/năm với khả năng được vay lại lại rất thấp khi phải cạnh tranh đấu thầu với những ngân hàng có thế lực lớn.
Để tự cứu, các ngân hàng thương mại tự thấy không thể chậm chân trong việc điều chỉnh tăng lãi suất. Đã có hiện tượng người gửi tiền rút tiền trước hạn từ một ngân hàng trả lãi suất thấp để gởi vào ngân hàng khác trả lãi cao hơn. Cuộc chạy đua lãi suất hàm chứa một nguy cơ rất lớn đối với các ngân hàng thương mại có vốn thấp và quy mô tiền gửi thấp vì họ phải đối mặt với hai vấn đề lưỡng nan: (1) Chi phí tăng, lợi nhuận sút giảm, (2) Nguy cơ mất khả năng thanh toán.
Các biện pháp đang áp dụng của ngân hàng nhà nước đang gây ra hiện tượng tăng lãi suất tiền gửi và lãi suất tín dụng trên toàn hệ thống ngân hàng với một cường độ đáng báo động. Chắc chắn tình trạng này sẽ dẫn đến việc giảm sụt khối lượng tín dụng và khối tiền tệ trong thời gian sắp tới. Một khi khối tiền tệ giảm, mặt bằng giá cả được kỳ vọng sẽ giảm theo tương ứng. Mục tiêu chống lạm phát có khả năng đạt được, với điều kiện không có những tác động tăng giá khách quan không kiểm soát được như việc tăng giá xăng dầu hay giá vàng.
Sách liên quan
Donate Ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe
Nhằm duy trì website tồn tại lâu dài và phát triển, nếu bạn yêu thích Taiebooks.com có thể ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe để thêm động lực nha.
Bạn cần biết thêm lý do để ủng hộ Taiebooks.com ?
- Website cần duy trì tên miền, máy chủ lưu trữ dữ liệu tải ebook và đọc online miễn phí.
- Đơn giản bạn là một người yêu mến sách & Taiebooks.com.