Sách này chia sẻ mục đích hỗ trợ người đọc cá nhân chưa có điều kiện mua sách giấy, hoàn toàn miễn phí và phi lợi nhuận. Sách được sưu tầm nhiều nguồn khác nhau mọi bản quyền thuộc về Tác Giả & Nhà Xuất Bản!

Giới thiệu & trích đoạn ebook

Sách Châm Cứu Học của tác giả T.t.thích Tâm Ấn

Chương 2: PHƯƠNG PHÁP CHÂM

I. Cách tìm huyệt và phân tấc

1. Phương pháp tìm huyệt

– Cách nhận định vị trí để tìm mỗi huyệt có nói rõ ở mỗi chương.

Khi tìm huyệt chắc chắn rồi cần phải tra cứu kỹ:

a) huyệt này châm hay đốt.

b) Nếu là huyệt chỉ được châm thì xem có thể châm sâu hay cạn.

c) Phân biệt huyệt chánh hay phụ.

d) Xét thể trạng và sức khoẻ của người bịnh để xử dụng theo lối châm mạnh (cường châm) châm mau ( tốc châm) châm cho ra máu (châm xuất huyết) châm rộng vùng (loạn châm) châm bổ hay châm tả, châm đứng hay xiên hay châm lẻo ngoài da.

2. Phân tấc:

– Phân tấc trong khoa châm cứu không nhất định vì người có lớn nhỏ ốm mập, nên người bịnh nào thì lấy phân tấc của người ấy. Thí dụ như muốn đo lấy một tấc của người bệnh thì bảo họ co ngón tay cái và ngón tay giữa cho đụng nhau.

Từ đầu chỉ ta bên trong đến đầu chỉ bên ngoài của lóng giữa ngón tay giữa là một tấc. Đàn ông lấy tay trái, đàn bà bên tay phải, trẻ con cũng đo như vậy.

Đo những huyệt trên đầu thì đo từ mé tóc trước trán đến mé tóc phía sau ót là 12 tấc hay là một thước hai tấc. (dùng những huyệt trong mí tóc)

Một cách khác là tìm huyệt dựa theo những điểm chánh của cơ thể, rồi từ những điểm chánh đó đo đến huyệt mình muốn tìm.

Thí dụ: Múôn tìm huyệt Thông thiên ta hãy lấy huyệt chính là Bá hội đo ra hai bên, mỗi bên là một tấc rưỡi rồi đo ra sau 5 phân.

Tìm huyệt ở vùng bụng, thì lấy rún làm điểm chính. Như muốn tìm huyệt Trung Uyển thì từ rún đo lên 3 tấc, Thượng uyển đo lên 5 tấc . Hạ uyển đo lên 1 tấc. từ rún đo xuống một tấc 5 là huyệt Khí hải, xuống 3 tấc là huyệt Quang nguyên, 4 tấc là huyệt Trung cực v.v. ..

Ở vùng lưng lấy Tam hạng cốt (hay Hổ lô cốt) làm điểm chính, để tìm các huyệt khác.

Dưới xương này giáp với đốt thư tư là huyệt Đại chùy, dưới một đốt nữa là huyệt Đào đạo, giữa đốt 8 và 9 là huyệt Linh đài, giữa đốt 12 – 13 là huyệt Cân súc, Từ giữa đo ngang ra tìm các huyệt khác. Như huyệt Đào đạo đo ra một bên 2 tấc là huyệt Phong môn v.v…

Ở một có nhiều điểm chánh như chót và đầu chân mày, khoé miệng, mé tóc v.v. . .

Ở chân điểm chánh là đầu gối, mắt cá và cườm chân. Ở tay ấy đầu xương vai, cùi chỏ, cườm tay.

Ngoài những điểm kể trên còn do ở thực nghiệm và quan sát chuyên môn và linh động mà ta nhận đúng vị trí của mỗi huyệt. Nếu quá chú trọng và câu nệ về phân tấc để đo, đôi khi cũng làm sai lạc.

Hiện nay người Nhật dùng ngọn đèn điện để tìm huyệt đạo, khi dò đúng vị trí thì đèn nầy cháy lên, khiến cho sự tìm huyệt không còn khó khăn nữa.

II. Dụng cự để châm

Thời thượng cổ dùng đá nhọn để châm, thời Trung cổ thì dùng xương hay tre vót nhọn.

Sau thạch khí thời đại con người biết thuật luyện kim và xã hội tiến bộ, kỷ nghệ phát triển lấy cơ giới thay cho thủ công, người ta dùng hợp kim để chế ra, khi xử dụng không gảy hoặc cong và rỉ sét.

Thuở xưa người ta dùng 9 loại kim:

1) Tiển đầu châm: dùng châm cạn ngoài da, hiện giờ dùng kim thất tinh hay kim mai hoa để thay thế còn kìm tiển đầu không thấy xử dụng.

2) Viên châm: kim tròn, dùng chà sát trên gân thịt.

3) Đề châm: loại kim dùng kích thích ở ngoài da.

4) Phong châm: có tên Tam lăng châm (kim 3 khía) dùng châm cho ra máu để làm giảm đau. Thí dụ: đau lưng dữ dội châm huyệt Ủy trung cho ra máu, hầu sưng nhức, châm huyệt Thiếu thương, dịch tả châm huyệt Thập Tuyên, các chứng trên đều được nhẹ .

5) Phi châm: Hình giống như lưởi kiếm, thuở xưa dùng để châm cho ra mủ.

6) Viên lợi châm: hình giống như đuôi trâu mủi lớn nhọn thân kim nhỏ để đâm sâu trong những chứng ung thư và tê bại.

7) Hào châm: hình giống như sợi lông nhọn, hiện thời loại kim nầy được phổ biến sâu rộng trong dân chúng.

8) Trường châm: hình như chiếc giày, thân kim mỏng mủi nhọn.

9) Đại châm: giống như chữ Đại hay chữ hỏa có nhiều người gọi là phần châm, thường dùng xương hay trúc làm cán để cầm , dùng trị những bộ phận trong sâu có mủ, ung thư xương, đau tràng hạt rất có công hiệu.

Hiện nay, người ta thường dùng các loại kim sau đây:

1) Hào châm: từ từ 5 phân đến 3 tấc 5 , nhỏ từ số 26 đến 32 v.v. .. thân kim tròn trơn loại này sử dụng rất rộng trong quần chúng.

2) Tam lăng châm: kim 3 khía mủi nhọn để châm cho ra máu

3) Bì phu châm: cũng gọi là tiểu nhi châm rất nhiều hình thức đại khái như cầm lấy cán gỏ lên vị trí của huyệt, gỏ nhiều hay ít tùy theo bịnh, nên gọi là kim Mai hoa (ít gỏ 3 lần, nhiều gỏ 5 lần) có tác dụng làm cho da mẫn cảm để điều chỉnh kinh lạc được phấn khởi.

Đánh mạnh hay nhẹ tùy theo người mập hay ốn. Những người đau lưng gỏ vào Du huyệt, gỏ vào tay chơn và thân kinh mạc sao hay chỗ đau. Mặt khác những bệnh ngoài da, bịnh mắt, bịnh dạ dày, ruột, thần kinh suy nhược dùng trị rất hữu hiệu.

Donate Ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe

Nhằm duy trì website tồn tại lâu dài và phát triển, nếu bạn yêu thích Taiebooks.com có thể ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe để thêm động lực nha.

Bạn cần biết thêm lý do để ủng hộ Taiebooks.com ?

  • Website cần duy trì tên miền, máy chủ lưu trữ dữ liệu tải ebook và đọc online miễn phí.
  • Đơn giản bạn là một người yêu mến sách & Taiebooks.com.

0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x