
Giới thiệu & trích đoạn ebook
Chương 2. CÁC CHẶNG ĐƯỜNG LÝ THUYẾT
Lịch sử dịch thuật bao gồm hoạt động và lý thuyết. Hoạt động là hành vi dịch thuật, do đó lịch sử về hoạt động dịch thuật gồm việc tìm hiểu nguyên tác và dịch phẩm, người dịch, và bối cảnh xã hội trong đó dịch phẩm ra đời. Trong khi đó lịch sử lý thuyết dịch thuật khảo sát các nguyên tắc và quan điểm về dịch thuật trong một thời đại nào đó, hay sự chuyển biến của các quan điểm dịch thuật theo thời gian.
Dịch thuật học, trong đó có lý thuyết phiên dịch, mới trở thành một ngành học từ thập niên 1970. Trước đó, các quan điểm và nguyên tắc dịch chỉ là một môn phụ dùng để dạy ngoại ngữ.
Chương này điểm lại lịch sử lý thuyết phiên dịch phương Tây từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Lý do chọn thời điểm này vì hiện nay chúng ta có văn liệu nói về thời kỳ đó. Một chương sách không thể duyệt hết các nguyên tắc, quan điểm và lý thuyết dịch thuật. Điều đó may ra có thể thực hiện trong một cuốn sách và trong điều kiện có nguồn tài liệu tham khảo đầy đủ. Do vậy chương này chỉ giới thiệu các quan điểm dịch thuật, chủ yếu của các tác gia phương Tây, đã làm nền tảng cho các lý thuyết dịch bắt đầu từ nửa sau của thế kỷ 20. Đây là giai đoạn mà lý thuyết dịch thuật được định hình để áp dụng trong các hoạt động liên quan đến dịch thuật hiện nay. Trước đó, không có lý thuyết dịch mà chỉ là các quan điểm ‘cù cưa’ giữa hai nguyên tắc chính: Dịch sát hay dịch thoát. Sinh viên muốn tìm hiểu kỹ hơn nên đọc hai tác phẩm tiêu biểu về lịch sử dịch thuật của Delisle và Woodsworth (1995), và Kelly (1979).
Tại sao nên biết lịch sử lý thuyết dịch thuật?
Học dịch để áp dụng lý thuyết, và biết cách áp dụng lý thuyết để đánh giá một bản dịch. Vì vậy không thể bỏ qua lịch sử lý thuyết phiên dịch. Có kiến thức về lịch sử, khi gặp một thuyết mới, ta sẽ biết thuyết mới đó có thật sự mới không, hay chỉ là một sự lặp lại lý luận cũ dưới một tên gọi mới.
Học lịch sử lý thuyết phiên dịch của một vùng hay một nước, một thời đại, còn giúp ta khám phá các trào lưu xã hội, chính trị, đặc biệt là sự phát triển văn học của xã hội đó. Bởi sự giàu có của một ngôn ngữ, kiến thức về một nền văn minh có được nhờ dịch thuật. Qua dịch thuật, chúng ta biết nền văn minh khác, các trào lưu văn học, tư tưởng, chính trị và xã hội, những lĩnh vực luôn phản ảnh trong quá trình dịch thuật.
Các thuyết về phiên dịch chưa trở thành đề tài học thuật nghiêm túc mãi cho đến ba thập niên sau cùng của thế kỷ 20. Trước thời gian này, các dịch giả phương Tây thảo luận về đề tài phiên dịch nhưng coi nó là một hoạt động ngôn ngữ chứ chưa phải là ngành học để giảng dạy và nghiên cứu. Họ thấy rằng cần căn cứ vào một số nguyên tắc để hành nghề, và đưa ra vài quan điểm, tập hợp lại thành bản liệt kê các tiêu chuẩn cần tôn trọng khi chuyển ngữ, như điều nào nên tránh, điều gì nên giữ.
Khi có sự tham gia của dịch giả thuộc các ngành chuyên môn khác nhau, những nguyên tắc dịch đó được phân tích rồi hệ thống hóa. Họ ‘lập thuyết’ để giảng dạy và nghiên cứu, trình bày quan điểm dịch thuật, và đánh giá một bản dịch.
2.1. Về quan niệm dịch thuật của Trung Quốc
Suốt lịch sử phiên dịch trên ba ngàn năm, từ đời nhà Chu (năm 1100 trước Công nguyên) đến nay, dịch giả Trung Quốc cũng có các nguyên tắc dịch thuật, rồi đúc kết thành các quy ước để hướng dẫn một nhóm người cùng dịch một đề án nào đó. Đầu tiên là để dịch kinh sách tôn giáo, và sau này là giới thiệu tư tưởng phương Tây vào trong nước.
Khoảng đầu thế kỷ 20, dịch giả Nghiêm Phục ([嚴復] 1854-1921) cho rằng phiên dịch có ba điều khó là ‘tín’ (sát nghĩa), ‘đạt’ (thông suốt, dễ hiểu), ‘nhã’ (thanh cao) [譯事三難:信達雅]. Nghiêm Phục dịch được chín cuốn về triết lý, học thuật (Nguyễn Hiến Lê 1997b), gồm các đại luận như Wealth of Nations của Adam Smith, The Study of Sociology của Herbert Spencer, On Liberty của John Stuart Mill, The Spirit of the Laws của Montesquieu. Tuy Nghiêm Phục không chủ trương đây là ba tiêu chuẩn để dịch, nhưng nhiều tác gia sau ông lấy ba điều khó mà ông nói làm tiêu chí để dịch và đánh giá bản dịch. So với các quan điểm dịch thuật của các tác gia phương Tây trước ông, thì ba nguyên tắc của Nghiêm Phục đơn sơ và không có gì mới. Sau ông, học giả Lâm Ngữ Đường chủ trương người dịch cần tôn trọng ba nguyên tắc là trung thật, thông thuận, và thẩm mỹ.
Trước Nghiêm Phục, các quan điểm dịch do các danh tăng Phật giáo đề xướng để áp dụng khi dịch kinh Phật từ Phạn ngữ ra Trung văn. Được biết nhiều nhất là Đạo An, rồi Cưu Ma La Thập, người Ấn Độ nhưng sống ở Trung Quốc vào cuối thế kỷ thứ tư đến đầu thế kỷ thứ năm. Nhưng trình bày lý luận dịch thực tế nhất phải kể Pháp sư Huyền Trang (玄奘). Sau khi thỉnh kinh từ Ấn Độ về, Huyền Trang đã dịch kinh Phật khoảng 20 năm. Ông đưa ra quy tắc ‘ngũ chủng bất phiên’ (五種不翻), tức có năm trường hợp không nên dịch ra Hán ngữ (Ma 1998). Đó là trang trọng bất phiên ([尊重不翻 tôn trọng bất phiên] giữ Phạn âm cho trang trọng nên không dịch, như ‘Bát Nhã’ mà dịch là ‘tri tuệ’ thì mất sự trang trọng), đa hàm bất phiên ([多含不翻] chữ nào có nhiều nghĩa thì không nên dịch vì dịch nghĩa này sẽ mất nghĩa khác), bí mật bất phiên ([秘密不翻] mật nghĩa như thần chú không nên dịch), thuận cổ bất phiên ([順古不翻] vì theo người xưa nên không dịch, như chữ A Nậu do xưa đã giữ âm gốc Phạn như vậy), và thử phương bất phiên ([此方無不翻 thử phương vô bất phiên] do ngôn ngữ đích không có nghĩa như ngôn ngữ gốc nên không dịch).
Sách liên quan
Donate Ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe
Nhằm duy trì website tồn tại lâu dài và phát triển, nếu bạn yêu thích Taiebooks.com có thể ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe để thêm động lực nha.
Bạn cần biết thêm lý do để ủng hộ Taiebooks.com ?
- Website cần duy trì tên miền, máy chủ lưu trữ dữ liệu tải ebook và đọc online miễn phí.
- Đơn giản bạn là một người yêu mến sách & Taiebooks.com.