Sách này chia sẻ mục đích hỗ trợ người đọc cá nhân chưa có điều kiện mua sách giấy, hoàn toàn miễn phí và phi lợi nhuận. Sách được sưu tầm nhiều nguồn khác nhau mọi bản quyền thuộc về Tác Giả & Nhà Xuất Bản!

Giới thiệu & trích đoạn ebook

Chương hai: Từ và ngữ cố định

I-TỪ

1. Vai trò của từ trong ngôn ngữ và trong đời sống của con người

Từ có vai trò quan trọng đối với đời sống của ngôn ngữ và đời sống của con người. Sự tồn tại của từ là biểu hiện của sự tồn tại của ngôn ngữ. Khó có thể tưởng tượng được một ngôn ngữ không có từ. Số lượng từ trong một ngôn ngữ cũng quan trọng trong việc đánh giá sự đa dạng, phong phú của ngôn ngữ. Ngôn ngữ càng có nhiều từ thì khả năng diễn đạt của ngôn ngữ đó càng đa dạng, càng dễ biểu hiện nhận thức, tình cảm tinh tế của con người. Con người sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện tư duy và phương tiện giao tiếp cũng không thể thiếu vốn từ. Số lượng từ trong mỗi con người là biểu hiện của khả năng sử dụng ngôn ngữ để tư duy và giao tiếp. Khả năng tư duy và giao tiếp của con người sẽ rất hạn chế nếu số lượng từ của con người quá ít.

2. Khái niệm từ

Từ có vai trò quan trọng như vậy đối với đời sống ngôn ngữ và đời sống con người nên từ được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ quan tâm từ rất sớm. Cho đến nay đã có rất nhiều định nghĩa về từ. Theo Nguyễn Thiện Giáp, hiện có khoảng 300 định nghĩa về từ. [Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết (1996), trang 61].

Mặc dù có nhiều định nghĩa về từ, nhưng chưa có một định nghĩa nào có thể thỏa mãn được yêu cầu nghiên cứu của tất cả các nhà từ vựng học. Thậm chí có những nhà khoa học cực đoan cho rằng không thể có được định nghĩa về từ. Sự khó khăn trong định nghĩa từ là do từ trong các ngôn ngữ khác nhau có những đặc điểm khác nhau. Chẳng hạn, các từ trong các ngôn ngữ châu Âu thường là các từ đa âm tiết nhưng có đặc điểm thể hiện ở mặt chữ viết rất rõ ràng, các âm tiết của một từ viết liền nhau – nên việc xác định ranh giới từ trở nên dễ dàng. Trong khi đó, tiếng Việt cũng có các từ đa âm tiết nhưng chúng không có dấu hiệu khác biệt riêng về mặt chữ viết (các âm tiết đều viết rời nhau như các từ đơn). So sánh hai câu sau:

(1) Xe đạp nhẹ quá. Có thể nhấc một tay cũng được.

(2) Xe đạp nhẹ quá. Không mất nhiều sức khi lên dốc.

Xe đạp trong hai câu trên có hình thức viết giống nhau nhưng chúng có hai cách hiểu khác nhau: xe đạp trong (1) là một từ ghép, xe đạp trong (2) là một cụm chủ vị.

Thậm chí trong một ngôn ngữ, biểu hiện hình thức và nghĩa của các từ khác nhau cũng rất khác nhau.

So sánh 2 từ sau trong tiếng Việt:

– xe đạp

– ái

Ta dễ dàng nhận thấy cấu tạo hình thức (số lượng âm tiết) của hai từ là khác nhau, nghĩa và chức năng của chúng cũng rất khác nhau: từ xe đạp có thể dùng làm tên gọi cho sự vật có trong thế giới ngoài ngôn ngữ, còn từ ái thì không; về mặt nghĩa, từ xe đạp có thể dùng để biểu đạt những cái xe cụ thể cũng như hiểu biết của con người về loại “xe đạp”, từ ái không có các kiểu nghĩa đó; về chức năng sử dụng, từ ái được dùng khi có kích thích trực tiếp vào cơ thể (bị nóng, bị đau v.v…), trong khi đó, từ xe đạp có thể được dùng vào bất cứ trường hợp nào, kể cả khi có mặt cái xe đạp cụ thể lẫn khi không có.

Do có những sự khác biệt giữa các từ trong các ngôn ngữ khác nhau và giữa các từ trong một ngôn ngữ nên không thể có được một định nghĩa chi tiết đáp ứng được tất cả các đặc điểm của từ trong các ngôn ngữ trên thế giới. Khi đề cập đến khái niệm từ, người ta chỉ nhắc đến một số tính chất khái quát. Có thể nhắc đến một số tính chất sau của từ

Từ là một đơn vị của ngôn ngữ có tính chất tín hiệu, từ có mặt biểu đạt (hình thức ngữ âm) và được biểu đạt (nghĩa, ý nghĩa)²;

Khi ngôn ngữ ở trạng thái tĩnh, tức xét như một hệ thống, so với các đơn vị ngôn ngữ khác như âm vị, hình vị và câu thì từ là một đơn vị ngôn ngữ tồn tại hiển nhiên, sẵn có. Âm vị, hình vị của ngôn ngữ là những đơn vị siêu ngôn ngữ được phân xuất từ từ theo các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học, bản thân chúng không luôn luôn tồn tại trong nhận thức những người sử dụng ngôn ngữ tự nhiên; câu là đơn vị không tồn tại sẵn có như từ vì chúng được sản sinh khi ngôn ngữ ở trạng thái hành chức, chỉ có trong hoạt động hành chức câu mới được tạo lập. Như vậy, khi ngôn ngữ chưa được sử dụng, chưa trong hoạt động hành chức, chỉ có từ là đơn vị tồn tại.

Khi ngôn ngữ thực hiện hoạt động hành chức, từ thực hiện chức năng là đơn vị nhỏ nhất có thể cấu tạo nên câu. Người ta không giao tiếp bằng các từ đơn lẻ, riêng biệt mà kết hợp các từ với nhau để tạo câu. Đơn vị giao tiếp nhỏ nhất là câu.

Qua những điểm trình bày trên đây, có thể đi đến một định nghĩa về từ như sau: Từ là đơn vị có tính chất tín hiệu tồn tại hiển nhiên trong ngôn ngữ ở trạng thái tĩnh và thực hiện chức năng làm đơn vị nhỏ nhất để tạo câu khi ngôn ngữ hành chức.

II- CẤU TẠO TỪ

1. Đơn vị cấu tạo từ

Nhìn vào từ teacher trong tiếng Anh, ta dễ dàng nhận xét: cấu tạo âm thanh của từ teacher gồm các âm (âm vị). Nhưng, từ góc độ Ngôn ngữ học, các âm vị không trực tiếp tạo thành từ. Các âm vị kết hợp với nhau tạo thành các đơn vị có nghĩa, rồi từ các đơn vị có nghĩa đó chúng ta mới cấu tạo thành từ. Đơn vị có nghĩa dùng để cấu tạo từ được gọi là hình vị.

Hình vị do âm vị tạo nên là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa thực hiện chức năng cấu tạo từ và biến đổi dạng thức của từ.

Donate Ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe

Nhằm duy trì website tồn tại lâu dài và phát triển, nếu bạn yêu thích Taiebooks.com có thể ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe để thêm động lực nha.

Bạn cần biết thêm lý do để ủng hộ Taiebooks.com ?

  • Website cần duy trì tên miền, máy chủ lưu trữ dữ liệu tải ebook và đọc online miễn phí.
  • Đơn giản bạn là một người yêu mến sách & Taiebooks.com.

0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x