Giáo Trình Vi Sinh Vật – Bệnh Truyền Nhiễm Vật Nuôi
Giới thiệu & trích đoạn ebook
III. VI SINH VẬT VÀ BỆNH TẬT
Từ ngàn đời nay, các bệnh truyền nhiễm vẫn là mối đe dọa của các loài sinh vật. Những thiệt hại do chúng gây ra thật là lớn lao.
Ví dụ:
– Ở thế kỷ XV, bệnh dịch hạch đã làm 500 triệu người mắc, 20 triệu người chết.
– Dịch cúm làm hàng tỷ người mắc bệnh.
– Giữa thế kỷ XVIII, dịch đậu mùa làm 60 triệu người mắc.
– Ở thế kỷ XIX hàng triệu người châu Phi chết vì bệnh sốt vàng.
– Ở Việt Nam năm 1945, riêng ở Hà Nội, dịch đậu mùa đã làm chết khoảng 5.000 người.
Theo Tổ chức Y tế thế giới, ở người, bệnh truyền nhiễm đang có khuynh hướng gia tăng, là mối đe doạ trên phạm vi toàn thế giới, các bệnh truyền nhiễm như dịch hạch, sốt xuất huyết, bạch hầu, viêm màng não, sốt vàng… sau nhiều năm giảm xuống đã gia tăng trở lại.
Các bệnh quan trọng như lao cũng đang tái xuất hiện. Thêm nữa, nhiều bệnh truyền nhiễm mới lại đang nảy sinh với tốc độ chưa từng có.
Trong vòng 30 năm qua 500 loài virus gây bệnh chiếm 80% trong tổng số các bệnh nhiễm trùng ở người đã được phát hiện. Có nhiều bệnh rất nguy hại như sốt xuất huyết, viêm gan virus typ B, C, bệnh viêm đường hô hấp do virus, đặc biệt AIDS (Acquired immuno deficiency syndrom) đang được nói tới như một nguy cơ huỷ diệt nhân loại. Điều nguy hiểm là danh sách bệnh truyền nhiễm chưa có trang cuối.
Ở gia súc và gia cầm, bệnh truyền nhiễm đã và đang gây ra những thiệt hại vô cùng to lớn làm ảnh hưởng đến đời sống con người, đến nền kinh tế quốc dân do:
– Giết chết hàng loạt gia súc, gia cầm.
– Tốn kém cho việc thực hiện các biện pháp phòng chống dịch.
– Gây rối loạn về hoạt động xã hội như: xuất nhập khẩu, buôn bán, đi lại của con người, hoạt động văn hoá, lễ hội.
– Bệnh lây từ gia súc sang người có thể giết chết hoặc ảnh hưởng đến sức khoẻ con người.
IV. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN MÔN HỌC
1. Giai đoạn trước khi có kính hiển vi (trước thế kỷ XV)
Từ thượng cổ, con người đã biết sử dụng vi sinh vật trong hoạt động sống (ủ phân, nấu rượu…) mặc dù chưa biết đến vi sinh vật.
Các bệnh truyền nhiễm cũng đã được con người mô tả và nghiên cứu các biện pháp phòng chống mặc dù chưa biết đến mầm bệnh.
Bác sĩ nổi tiếng người Ý Fracastoro (1483 1553) đã nghiên cứu bệnh truyền nhiễm và kết luận: “Nguồn gốc của bệnh truyền nhiễm là do sự bản thỉu gây ra, nó được truyền từ người này sang người khác qua một môi giới mà môi giới này loài người chưa từng biết đến”.
2. Giai đoạn sau khi phát minh ra kính hiển vi (giai đoạn hình thái học)
Người đầu tiên phát hiện ra vi sinh vật là Anton Leeu Wenhock (1632 -1723) đánh dấu bằng sự phát minh ra kính hiển vi vào năm 1695.
Theo các tư liệu còn lưu trữ được, có thể thấy Leeu Wenhock đã quan sát thấy nguyên sinh động vật và các loại cầu khuẩn, trực khuẩn và xoắn khuẩn. Có thể nói Leeu Wenhock là người đã mở ra trang đầu tiên trong lịch sử nghiên cứu vì sinh vật. Song trong một thời gian dài, ông và những người kế tiếp ông không làm gì được nhiều hơn ngoài việc chứng minh sự có mặt của vi sinh vật và mô tả hình thái bên ngoài của chúng. Vì thế, giai đoạn này gọi là giai đoạn hình thái học.
3. Giai đoạn hình thành khoa học vi sinh vật
Đến thế kỷ XIX ngành vi sinh vật bắt đầu phát triển mạnh, nhiều nhà khoa học đã tiến hành quan sát và nghiên cứu vì sinh vật. Cuối thế kỷ XIX, rất nhiều vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm cho người và súc vật đã được phát hiện.
– 1881 Pasteur phát hiện và nghiên cứu vi khuẩn nhiệt thán.
– 1882 Roberk Koch phát hiện vi khuẩn lao.
– 1883 Roberk Koch phát hiện phảy khuẩn tả.
Chỉ một thời gian ngắn, rất nhiều loài vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm ở người và động vật đã được phát hiện và nghiên cứu.
– 1892 Ivanopski phát hiện ra virus, đã mở rộng thêm lĩnh vực nghiên cứu của loài người với vi sinh vật.
– 1928, nhà vì sinh vật người Anh Fleminh lần đầu tiên phát hiện ra kháng sinh, từ đó mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử đấu tranh chống các bệnh truyền nhiễm, kỷ nguyên chất kháng sinh.
4. Giai đoạn hiện tại
Với sự phát triển nhanh chóng của các ngành khoa học chính xác và sự ra đời của hàng loạt các phương tiện nghiên cứu mới đã đưa đến những tiến bộ có tính chất nhảy vọt trong sinh học nói chung và vi sinh vật nói riêng.
Nhờ có kính hiển vi điện tử, loài người đã thấy rõ cấu trúc của virus, các thành phần cấu trúc trong tế bào vi sinh vật.
Các kỹ thuật phân tích hiện đại (sắc ký, quang phổ tử ngoại, quang phổ phát xạ, kỹ thuật sinh học phân tử, máy vi tính…) đã trợ giúp cho quá trình nghiên cứu vi sinh vật một cách sâu sắc và vì thế vi sinh vật đã trở thành ngành khoa học hết sức sâu rộng, ngày càng phục vụ đắc lực cho sản xuất và đời sống của con người.
V. NHIỆM VỤ VÀ NỘI DUNG MÔN HỌC
Môn Vi sinh vật – Bệnh truyền nhiễm vật nuôi nghiên cứu về mầm bệnh gây ra các bệnh truyền nhiễm, các quy luật phát sinh, phát triển của bệnh truyền nhiễm, từ đó tìm ra các biện pháp phòng chống để từng bước khống chế đi đến thanh toán bệnh. Đó là nhiệm vụ cơ bản của môn học.
Môn học có hai phần nghiên cứu:
– Phần đại cương: Tìm hiểu những kiến thức căn bản về đặc tính sinh học của vi khuẩn và virus, hai đối tượng chủ yếu gây ra các bệnh truyền nhiễm ở động vật nuôi, đồng thời nghiên cứu khái quát về khả năng miễn dịch của cơ thể chống lại tác động có hại của mầm bệnh. Nghiên cứu các quy luật về sự phát sinh, phát triển và ngừng tắt của các bệnh truyền nhiễm; trên cơ sở đó để ra các biện pháp chung để phòng chống đối với tất cả các bệnh truyền nhiễm.
– Phần chuyên khoa: Nghiên cứu cụ thể từng bệnh truyền nhiễm gây ra cho động vật nuôi.
Sách liên quan

Donate Ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe
Nhằm duy trì website tồn tại lâu dài và phát triển, nếu bạn yêu thích Taiebooks.com có thể ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe để thêm động lực nha.
Bạn cần biết thêm lý do để ủng hộ Taiebooks.com ?
- Website cần duy trì tên miền, máy chủ lưu trữ dữ liệu tải ebook và đọc online miễn phí.
- Đơn giản bạn là một người yêu mến sách & Taiebooks.com.
