
Làng Lại Đà Xưa Và Nay – Đọc Sách Online Ebooks PDF
Giới thiệu & trích đoạn ebook
Sách Làng Lại Đà Xưa Và Nay của tác giả Nguyễn Phú Sơn mời bạn đọc thưởng thức.
Phần II
Xã Hội
Các dòng họ
Tuy không phiên chế thành tổ chức, nhng các dòng họ giữ vai trò quan trọng trong các hoạt động và là một bộ phận cấu thành nên làng xã xa.
Bốn họ Vương, Lường (Lương), Ngô, Nguyễn là những họ có công lập làng và được dân làng tôn là “Tứ Gia Tiên Tộc”. Đất lành chim đậu, sau bốn họ mở đường ấy, tiếp đó nhiều gia đình đến sinh sống trên mảnh đất làng ta. Làng ngày một mở rộng, nhà cửa ngày một thêm đông đúc. Qua các thế hệ, đã hình thành nhiều dòng họ và mỗi dòng họ, đều có những đóng góp cho mảnh đất này. Đến nay làng có 33 tộc, họ.
Mỗi dòng họ, mỗi cá nhân đều có những đóng góp để cho Lại Đà ngày thêm một thịnh vợng. Họ Vương Khắc có cụ Vương Khắc Thuật, đỗ Thám Hoa vào năm 1472, hai lần đi sứ sang nhà Minh và làm đến chức Tham chính. Họ Ngô Duy có cụ Ngô Tuấn được xếp vào bậc danh thần trấn Kinh Bắc, từng làm quan dưới thời Lê.
Khi Tây Sơn lấy Bắc Hà, cụ cùng Nguyễn Duy Hàn, Đỗ Thanh Lâm vào Gia Định phò nhà Nguyễn và làm Tả tham quân tả đồn thần sách quân, năm Tân Dậu (1801) làm Chiêu thảo sứ. Cụ từng tham chiến ở đồn Biện Sơn (vùng Thanh Hoá – Nghệ An).
Năm 1802, vào đầu triều Vua Gia Long, cụ được phong làm Hiệp trấn Hải Dương. Thời Hậu Lê có cụ Lương Đẩu, đỗ Hương Cống vào năm 1783, kế tiếp có các cụ Lương Lịnh, Lương Hồng đỗ Sinh đồ, đa các gia đình họ Lương thành gia đình khoa cử. Họ Ngô Quý có Cụ Ngô Quý Vọng (1685-1766) là người khởi nghiệp nghề y của họ. Cụ làm thuốc nổi tiếng tổng Cói, được vời vào Vương phủ chúa Trịnh chữa bệnh và đợc ban hàm Thiếu Khanh.
Con trai của cụ là Ngô Quý Điểm y thuật giỏi nhất một vùng, nên được nhận hàm Huyện Thừa. Thế hệ kế tiếp có cụ Ngô Quý Ấn (1756-1823), đỗ Hiệu sinh năm 13 tuổi, rất giỏi y thuật (cụ là rể của Tiến sỹ Ngô Thế Trị người làng Cự Trình). Họ Ngô Bá có cụ Ngô Bá Thiệm, đậu Tú tài năm 1852, làm nghề y và dạy học, học trò theo rất đông. Còn họ Nguyễn Phú có cụ Phúc Kính, một người hay chữ, giỏi thơ văn, nên dân làng gọi là cụ Văn.
Thời Tự Đức có cụ Nguyễn Bá Khiêm, đậu Cử nhân năm 1848, từng làm Tri huyện huyện Phù Cừ. Cùng thời, trong họ còn có cụ Phú Hanh, giỏi văn võ, 18 tuổi đỗ Thư toán, năm 1867 vào kinh đô Huế, chức Trung uý cơ, chỉ huy một vệ quân bảo vệ kinh thành, khi mất được đa về quê nhà, có quan hàng tỉnh đến tế.
Giáp
Giáp là một bộ phận trong cơ cấu tổ chức làng xã xa. Ngày trước làng ta có 7 giáp, gồm: giáp Đông Chính; giáp Đông Bắc; giáp Đông Trung; giáp Tây Nam; giáp Đoài Thượng; giáp Đoài Chính; giáp Đoài Bấc (Bắc). Mỗi giáp có 3 bàn hương trưởng, gọi là bàn nhất, bàn nhì và bàn ba. Mỗi bàn có 2 người, duy giáp Tây Nam, mỗi bàn có 1 ngời.
Tuỳ theo số đinh đông hay ít mà phân chia vào một giáp, có giáp hai, ba họ; có giáp chỉ có một họ. Họ Nguyễn Phú đông đinh, nên được đứng trọn một giáp: giáp Tây Nam.
Giáp được gắn với vị trí ngồi ở đình và qua vị trí chỗ ngồi thấy được tầm vóc của giáp. Thời Trần, giáp được tổ chức theo khu vực, địa dư (theo khoảnh tre).
Lúc đầu giáp mang tính chất bán quân sự. Giáp cung cấp phu, lính. Đến thời Hậu Lê, giáp không tổ chức theo khoảnh tre, mà theo dòng họ, một hoặc hai, ba họ hợp thành. Người đứng đầu giáp gọi là “lình”, tiếng cổ là lệnh – người ra lệnh. Có nơi đứng đầu giáp gọi là cai giáp, như ở làng ta.
Giáp tổ chức khá chặt chẽ. Một đứa trẻ trai năm, sáu tuổi đã phải biện cơi trầu xin nhập giáp, đến tuổi 18 phải đóng tiền vào giáp, gia nhập hương ẩm. Từ lúc đó người ấy chính thức là thành viên của giáp, phải gánh vác công việc của giáp, được quyền dự các ngày lễ của giáp, được ăn uống, chia phần, đến khi chết, được giáp tổ chức đa đón theo lễ nghi ở làng.
Ai đứng ngoài giáp, mọi việc hiếu, hỷ của gia đình, không có dân làng nào đến dự. Đặc điểm của giáp là chỉ có nam giới tham gia và mang tính chất cha truyền con nối – cha ở giáp nào, thì con ở giáp ấy.
Việc gia nhập giáp có tính tự nguyện, hàng năm phải đóng góp. Trong nội bộ giáp, phân biệt thứ hạng bằng tuổi tác. Vinh dự tối cao của thành viên hàng giáp là lên lão. Thông thường, tuổi lên lão là 60, có làng quy định 50 hoặc 55 tuổi đã lên lão. Lên lão là lên ngồi chiếu trên, được cả giáp, cả làng trọng vọng. Tùy từng làng mà người ngụ cư phải qua bao nhiêu đời mới đợc vào giáp, thường là sau 3 đời.
Làng ta hàng năm vào ngày 13 tháng chạp là ngày việc phe giáp. Mọi thành viên trong giáp đều được đến dự
Lễ Hội
Ngoài những công trình kiến trúc tôn giáo, văn hoá,…các phong tục tập quán, hội hè, làn điệu dân ca, truyền thuyết,… là di sản phi vật thể vô cùng quý giá mà ông cha để lại, thì Hội làng là một trong những di sản quý. Theo lệ làng, hội làng ta thường tổ chức vào ngày 11/3 âm lịch hoặc ngày 14/8 âm lịch (ngày sinh, ngày hoá của Thành hoàng).
Lễ hội có năm làm to, gọi là Phong (thờng 2 đến 3 năm lại Phong một kỳ). Khi hoàn cảnh cho phép, năm đó lúa má tốt tơi, dân tình no đủ, thì tổ chức Phong. Còn những năm khác, thì tổ chức theo hội lệ (gọi là Sái). Năm nào Phong, hội hè rước xách sẽ rất linh đình. Hội làng gồm có phần lễ và phần hội. Phần lễ được xem là quan trọng.
Trong hương ước ghi: “Ngày mồng 9 tháng 3 lễ mộc dục, lễ tiến mã dùng trầu cau. Ngày mồng 10 tháng 3 lễ nhập tịch dùng gà 1 con, hoặc thủ lợn, xôi 20 đấu, cau 20 quả, rượu 4 chai, lễ chay 2 lễ dùng xôi chuối. Ngày 11/3 lễ xuân tế, dùng lợn hay bò một con, xôi 20 đấu, cau 50 quả, rượu 6 chai. Lễ chay dùng bánh trôi 2 mâm và bánh đờng.
Sách liên quan
Donate Ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe
Nhằm duy trì website tồn tại lâu dài và phát triển, nếu bạn yêu thích Taiebooks.com có thể ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe để thêm động lực nha.
Bạn cần biết thêm lý do để ủng hộ Taiebooks.com ?
- Website cần duy trì tên miền, máy chủ lưu trữ dữ liệu tải ebook và đọc online miễn phí.
- Đơn giản bạn là một người yêu mến sách & Taiebooks.com.