Sách này chia sẻ mục đích hỗ trợ người đọc cá nhân chưa có điều kiện mua sách giấy, hoàn toàn miễn phí và phi lợi nhuận. Sách được sưu tầm nhiều nguồn khác nhau mọi bản quyền thuộc về Tác Giả & Nhà Xuất Bản!

Giới thiệu & trích đoạn ebook

CÁC NHÀ NHÂN VĂN Y HỌC

Cuộc Cách mạng Khoa học nói chung được coi là sự thay đổi lớn của các ngành khoa học vật chất xảy ra trong thế kỷ thứ 16 và 17, và trước tiên gắn liền với các tên tuổi như Nicolaus Copernicus (1472-1543), Johannes Kepler (1571-1630), Galileo Galilei (1564-1642), và Isaac Newton (16421727). Một số học giả cố đào sâu vấn đề vì sao Cuộc Cách Mạng Khoa học lại xảy ra tại châu Âu vào thế kỷ thứ 17, thay vì tại Trung Quốc hoặc những vùng thuộc Hồi giáo, là những nơi đã đạt được trình độ khoa học và kỹ thuật tinh xảo nhiều thế kỷ trước đó. Những học giả khác khi bàn về vấn đề này lại lập luận rằng chưa hề xảy ra những thứ tương tự như Cuộc Cách mạng Khoa học châu Âu.

Xét cho cùng, trong suốt thời kỳ gọi là Cuộc Cách mạng Khoa học, mối quan tâm về chiêm tinh học, giả kim thuật, ma thuật, tôn giáo và học thuyết vẫn còn tồn tại. Tuy vậy, các học giả khác xem cuộc Cách mạng Khoa học chỉ là một ẩn dụ có cơ sở về một sự quá độ của toàn cảnh thế giới từ thời tiền-hiện đại sang hiện đại trong đó khoa học là mấu chốt của cuộc sống và tư tưởng. Các tác giả sống qua thời đại theo truyền thống được gọi là thời Phục hưng thường bày tỏ cái nhận thức đầy sợ hãi khi thấy các luồng tư tưởng đổi thay, chẳng hạn như học thuyết của Copernic.

John Donne (1572-1631), nhà thơ và tu sĩ người Anh, nghĩ rằng hình ảnh lấy Mặt trời làm trung tâm của vũ trụ có thể rất đúng, nhưng ông ta lại than vãn rằng nền triết học mới “làm nghi ngờ tất cả mọi thứ”. Đúng vậy, thế giới đã mất cái tính “nhất quán” truyền thống. Con người không còn biết tìm Mặt trời, Trái đất và các hành tinh khác ở đâu. Tuy thế các nhà thơ và trí tuệ con người dần dà có thể điều chỉnh ngay cả sự chuyển dịch của Trái đất và Mặt trời. Alexander Pope (1688-1744), trong bài “Luận về Con người” (1734), thấy rằng viễn cảnh mới gây hứng khởi hơn là gây khiếp sợ, và hy vọng rằng những tư tưởng mới về vũ trụ có thể cho chúng ta biết “vì sao Thượng đế tạo ra chúng ta như hiện nay”.

Vì vậy, đúng khi thời Phục hưng chuyển đổi các ngành nghệ thuật, thì sau đó cuộc Cách mạng khoa học đã chuyển đổi các tư tưởng về bản chất của vũ trụ và bản chất con người. Trong giai đoạn từ 1450 đến 1700, chủ nghĩa kinh viện thời Trung cổ được thay bằng một phương cách mới để hiểu về thế giới tự nhiên. Áp dụng phương thức suy nghĩ mới này vào giải phẫu học, sinh lý học và giáo dục y khoa sẽ không thể nào thực hiện được nếu không có sự tham gia của các học giả chủ trương nhân văn.

Giống như các học giả kinh viện thời Trung cổ, các nhà nhân văn dành nhiều thời gian cho từ ngữ và sách vở và công việc khó khăn là kết hợp kinh nghiệm và thực hành vào nền học vấn cổ điển. Trong khi sự náo động tri thức và những say mê về tính uyên thâm của giai đoạn này đầy độc đáo, thì tôn giáo vẫn còn thấm đậm vào đời sống thời Trung cổ và cái cách mà các học giả, họa sĩ, nhà thám hiểm và các triết gia tự nhiên nhìn thế giới, thậm chí cả Thế giới mới. Ngay cả khi chủ nghĩa nhân đạo là biểu thị của một trạng thái tinh thần mới, thì một nửa số sách được in trong thời kỳ này đều đề cập đến các vấn đề có chủ đề tôn giáo.

Có thể lấy một trường hợp khá tiêu biểu về chủ nghĩa nhân văn và các nhà nhân văn tại các trường đại học khắp Tây Âu đã đóng vai trò chủ đạo trong việc chuyển đổi giáo trình thời Trung cổ mang tính kinh viện. Các khoa trong trường đại học tổng hợp giành giật nhau về nguồn tài trợ; các học giả danh giá đầy cố chấp, các chức vụ chính thức và phụ tá, tiền hưu, kiểu cách trang phục và than phiền về mối căng thẳng giữa người có học với giới bình dân; còn các sinh viên thì tìm cách chỉ trích các giáo sư về những điểm mà họ cho rằng dạy dỗ không đến nơi đến chốn.

Nói cách khác, môi trường hàn lâm nói chung vẫn không có gì thay đổi. Mặc dù nhiều mặt của truyền thống tri thức thời Trung cổ vẫn còn hiện diện, nhưng các học giả nhân văn, nhất là những vị tại các trường đại học tổng hợp ở Ý, đã khuấy lên một cuộc cách mạng tri thức thực sự. Nhưng vì nhiều lý do, các trường đại học của Ý suy tàn dần vào thế kỷ thứ 17 trong khi đó các trường đại học của những vùng khác lại đưa ra sự cạnh tranh mạnh mẽ cho sinh viên và các khoa.

Trong khi các học giả nhân văn nói chung chú ý đến nghệ thuật và văn chương nhiều hơn là khoa học, thì tầm nhìn xa mới của họ đồng thời cũng đã giúp ích cho các ngành y khoa. Là những người ủng hộ kiên định cho các tài liệu của Galen được tuyển chọn lại, các học giả nhân văn loại bỏ các bản dịch bị sai lệch thời Trung cổ. Tuy vậy do quá kính nể các tác giả cổ đại cho nên họ cũng hoài nghi khả năng xây dựng được một ngành y học mới độc lập với các tác giả Hy Lạp cổ đại. Công trình của Thomas Linacre (1460?-1524) và John Caius (1510-1573), là những nhà nhân văn y học xuất sắc người Anh, đã tiêu biểu cho bản chất của học thuật và giáo dục y khoa trong thời kỳ này.

Thomas Linacre học tiếng Hy Lạp tại Florence và Rome trước khi nhận bằng Tiến sĩ y khoa tại đại học Padua năm 1496. Ngoài công việc học thuật ra, Linacre có một phòng mạch tư nhân phát đạt, dạy tiếng Hy Lạp, và cũng là thầy thuốc riêng của vua Henry VII. Linacre biên tập và dịch các tài liệu của Galen về vệ sinh, điều trị, các triệu chứng của bệnh, mạch, và nhiều thứ nữa. Ông ta cũng là một nhà nghiên cứu về ngữ pháp được đánh giá cao. Quyển sách cuối cùng nghiên cứu về cú pháp tiếng Latin được xuất bản sau khi ông mất. Là người sáng lập và là ngọn đèn hướng dẫn của Học viện các thầy thuốc, Linacre có công trong việc định hình đặc điểm của nghề y nước Anh.

Donate Ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe

Nhằm duy trì website tồn tại lâu dài và phát triển, nếu bạn yêu thích Taiebooks.com có thể ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe để thêm động lực nha.

Bạn cần biết thêm lý do để ủng hộ Taiebooks.com ?

  • Website cần duy trì tên miền, máy chủ lưu trữ dữ liệu tải ebook và đọc online miễn phí.
  • Đơn giản bạn là một người yêu mến sách & Taiebooks.com.

0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x