
Quản Trị Dựa Vào Tri Thức – Đọc Sách Online Ebooks PDF
Giới thiệu & trích đoạn ebook
Trong chương này, chúng tôi bàn về bản chất của tri thức và sự khác biệt của tri thức với những nguồn lực khác. Điều này sẽ giải thích tại sao chúng ta cần một lý thuyết mới về tri thức và cách quản lý tri thức. Vấn đề tri thức trong các lý thuyết về doanh nghiệp được đề cập chủ yếu trên quan điểm về nguồn lực của doanh nghiệp, trong đó xem tri thức là một trong những nguồn lực quan trọng mang lại lợi nhuận trên trung bình (Winter, 1987; Prahalad và Hamel, 1990; Nelson: 1991; Kogut và Zander, 1992; Leonard-Barton, 1992; Teece và các cộng sự, 1997).
Những vấn đề trọng tâm của quan điểm này đề cập đến loại nguồn lực tri thức nào mang lại lợi nhuận trên trung bình, cách một doanh nghiệp hiện thực hóa lợi nhuận tiềm năng từ những tri thức mình sở hữu, và cách một doanh nghiệp có thể bảo vệ những nguồn lực tri thức đó. Mặc dù nhận thức được những khả năng năng động của doanh nghiệp (Teece và các cộng sự, 1997; Teece, 2007), nhưng nhiều luận cứ của quan điểm này có xu hướng tập trung vào việc sử dụng nguồn lực, chứ không tập trung vào quá trình năng động trong đó doanh nghiệp liên tục xây dựng những nguồn lực thông qua tương tác với môi trường. Vấn đề còn thiếu trong cách tiếp cận dựa trên nguồn lực là một khung mẫu bao quát chỉ ra cách những thành phần khác nhau trong một tổ chức tương tác với nhau qua thời gian để tạo ra cái mới (có thể xem bài phê bình chi tiết của Priem và Butler, 2001).
Cái gọi là quan điểm dựa trên tri thức về doanh nghiệp (Grant, 1996; Spender, 1996; Nonaka và Toyama, 2005), được phát triển từ quan điểm dựa trên nguồn lực, đã cố gắng khắc phục nhược điểm này. Như Spender quan sát “lý thuyết doanh nghiệp dựa trên tri thức có sự sáng suốt hơn những lý thuyết dựa trên nguồn lực và chức năng sản xuất của doanh nghiệp”. Ông gọi lý thuyết dựa trên tri thức “là nền tảng của một quan điểm mới xem doanh nghiệp là một hệ thống năng động, tiến hóa, hầu như tự chủ trong quá trình sản xuất và áp dụng tri thức” (Spender, 1996: 59).
Hơn nữa, trong quan điểm dựa trên nguồn lực của doanh nghiệp, tri thức được sử dụng như một trong rất nhiều nguồn lực mang lại thu nhập. Tính vô hình của nguồn lực tri thức đã được nhận thấy rõ và thảo luận nhiều, nhưng vẫn chưa đủ để hiểu vai trò của tri thức trong quản lý và trong quá trình tri thức được tạo ra. Bản chất của tri thức với vai trò là một nguồn lực quản lý rất khác so với bản chất của các nguồn lực vật chất.
Thuộc tính của tri thức là những điều như: tri thức không mất giá trị khi được sử dụng bởi nhiều người, vì vậy nó là nguồn lực làm tăng thu nhập; tri thức vượt qua không gian và thời gian, dù ở hình thức vật thể, tài liệu hay truyền thống được truyền qua nhiều thế hệ, vì vậy nó là nguồn lực vô hạn; tri thức được sản xuất và tiêu dùng cùng lúc, làm cho quá trình sản xuất và tiêu dùng tri thức có tương quan với nhau và không thể tách rời; và giá trị của tri thức được sinh ra từ sự sáng tạo loại tri thức mới và từ sự kết hợp tri thức, tạo ra giá trị thông qua việc tái phân loại tri thức (xem Toffler, 1980; Romer, 1986; Bell: 1995; Nonaka và Takeuchi, 1995; Burton-Jones, 1999).
Nói cách khác, trong khi những nguồn lực vật chất như vốn, nguyên vật liệu và công cụ sản xuất chỉ có thể được sử dụng bởi chủ sở hữu và bị hao mòn trong quá trình sử dụng, thì tri thức không bị giảm về giá trị, có thể được tái sản xuất và chia sẻ bởi nhiều người sử dụng; và có sẵn ở khắp nơi. Không những thế, giá trị của các nguồn lực vật chất có thể gia tăng khi được kết hợp với tri thức.
Có một số đặc điểm tương đồng giữa tri thức với thông tin. Chẳng hạn như một số đặc tính sau của thông tin: thông tin có thể được sao chép và tái sản xuất với chi phí thấp; có ngoại ứng (externality), nghĩa là giá trị của nó phụ thuộc vào số người sở hữu; mang tính không tách chia được hoặc mang tính hệ thống chứ không rời rạc; chất lượng của thông tin là bất ổn, do đó khó xác định giá trị của nó; và sự chuyển giao thông tin là không thể đảo ngược được, theo nghĩa là khi một người đã biết thông tin thì không thể “loại bỏ” nó khỏi trí óc (Stigler, 1961; Macho-Stadler và Perez-Castrillo, 2001).
Tuy nhiên, tri thức không chỉ đơn giản là một tập hợp các thông tin. Đặc tính nổi bật nhất của tri thức, so với các nguồn lực vật chất và thông tin, là được sinh ra từ sự tương tác của con người. Tri thức không phải là vật chất độc lập, chờ đợi được phát hiện và thu thập. Tri thức được tạo ra bởi con người trong những tương tác của họ với người khác và với môi trường. Vì vậy, để hiểu tri thức, đầu tiên chúng ta phải hiểu về con người và những quá trình tương tác phát sinh tri thức.
Vì tương tác giữa người với người là nguồn gốc của quá trình sáng tạo tri thức, tri thức mang tính chủ quan, tính quá trình, tính thẩm mỹ, và được tạo ra qua thực hành. Quan điểm của chúng tôi về tri thức và quá trình sáng tạo tri thức lấy con người làm trung tâm, lấy hành động làm định hướng, và bắt nguồn từ những truyền thống triết học phương Đông của Nishida, và triết học phương Tây của Aristotle, Polanyi, và Whitehead, những người giải thích bản chất của tri thức và sự tồn tại của con người trong một thế giới luôn thay đổi và có tương quan với nhau.
1.1 Tri thức mang tính chủ quan
Trong một thời gian dài, các học giả về quản lý đã cố gắng loại bỏ yếu tố chủ quan trong quản lý nhằm xây dựng một lý thuyết “khách quan” có thể được áp dụng phổ quát cho tất cả các trường hợp mà người quản lý gặp. Mặc dù có nỗ lực “lý trí” này, họ không thể loại bỏ hoàn toàn yếu tố chủ quan khỏi vấn đề quản lý. Flyvbjerg (2001) chỉ ra rằng khoa học xã hội không thể tách khỏi những yếu tố chủ quan vì nó là khoa học về những vấn đề có yếu tố chủ quan, chẳng hạn như giá trị, bối cảnh hay quyền lực.
Sách liên quan
Donate Ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe
Nhằm duy trì website tồn tại lâu dài và phát triển, nếu bạn yêu thích Taiebooks.com có thể ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe để thêm động lực nha.
Bạn cần biết thêm lý do để ủng hộ Taiebooks.com ?
- Website cần duy trì tên miền, máy chủ lưu trữ dữ liệu tải ebook và đọc online miễn phí.
- Đơn giản bạn là một người yêu mến sách & Taiebooks.com.