
Vùng Đất Con Người Đông Bắc – Web Tải Sách Miễn Phí Ebooks PDF
Giới thiệu & trích đoạn ebook
Sách Vùng Đất Con Người Đông Bắc của tác giả Đinh Văn Thiên, Hoàng Thế Long, Nguyễn Trung Minh mời bạn thưởng thức.
2. Đặc điểm cơ bản của các dân tộc ở Đông Bắc
Các dân tộc chính cư trú ở Đông Bắc gồm: Kinh, Tày, Dao, Thái, Mông, Nùng…
* Người Kinh
Tên gọi khác: Người Việt.
Người Kinh từ xa xưa đã định cư chắc chắn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Hiện nay, người Kinh cư trú trên khắp cả nước, nhưng đông nhất là ở đồng bằng và các đô thị.
Hoạt động sản xuất: Nông nghiệp lúa nước đã được hình thành và phát triển ở người Kinh từ rất sớm. Hệ thống đê điều ngày nay là sự chứng minh cho tinh thần kiên cường chế ngự tự nhiên để cư trú và sản xuất nông nghiệp của ông cha ta. Chăn nuôi lợn, gia súc, gia cầm, thả cá… cũng rất phát triển. Người Kinh nổi tiếng “có hoa tay” – khéo léo trong nghề thủ công nghiệp, phát triển bách nghệ trăm nghề mà nghề nào dường như cũng đạt đến đỉnh cao của sự tài hoa. Chợ làng, chợ phiên, chợ huyện… rất sầm uất. Hiện nay, các đô thị và các khu công nghiệp đang ngày càng phát triển trong tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Đời sống văn hóa: Trong bữa ăn hàng ngày thường có món canh rau hay canh cua, cá… Đặc biệt người Kinh rất ưa dùng các loại mắm (mắm tôm, cá, tép, cáy…) và các loại dưa (cải, hành, cà, kiệu). Tương và các loại gia vị như ớt, tỏi, gừng… cũng thường thấy trong các bữa ăn. Rượu được dùng trong các dịp lễ tết, liên hoan… Ăn trầu, hút thuốc trước kia chẳng những là nhu cầu, thói quen mà còn đi vào cả lễ nghi phong tục.
Trước kia, đàn ông thường mặc quần chân què, áo cánh nâu (Bắc Bộ), màu đen (Nam Bộ), đi chân đất; ngày lễ tết mặc quần trắng, áo chùng lương đen, đội khăn xếp, đi guốc mộc. Phụ nữ mặc váy đen, yếm, áo cánh nâu, chít khăn mỏ quạ đen (Bắc Bộ) hoặc khăn rằn (Nam Bộ). Phụ nữ ngày lễ hội hè mặc áo dài. Mùa đông, cả nam và nữ thường mặc thêm áo kép bông. Trang phục phân biệt giữa các lứa tuổi chỉ ở màu sắc và cỡ quần áo; giữa giàu nghèo ở chất liệu vải lụa và chỉ có người giàu sang mới dùng đồ trang sức.
Nhà mới: Người Kinh có câu: “Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng nam”. Nhà hướng nam thì ấm về mùa đông và mát về mùa hè. Khi làm nhà, ngoài việc chọn hướng còn phải xem tuổi và định ngày tháng tốt để khởi công xây cất. Và khi làm xong thì chọn ngày tốt cúng rước tổ tiên và ăn mừng nhà mới. Người Kinh thường ở nhà trệt, trong khuôn viên thường được bố trí liên hoàn nhà – sân – vườn -ao. Ngôi nhà chính thường có kết cấu ba gian hoặc năm gian và gian giữa thường là trang trọng nhất làm nơi đặt bàn thời gia tiên. Những gian bên là nơi nghỉ ngơi, sinh hoạt của các thành viên trong gia đình, gian buồng được bố trí ở chái nhà làm chỗ ở của phụ nữ và cũng là nơi cất trữ lương thực, tài sản của gia đình. Nhà bếp thường được làm liền với chuồng nuôi gia súc. Ở nhiều tỉnh Nam Bộ, nhà bếp thường được làm sát kề hay nối kề với ngôi nhà chính. Sân để phơi, để sinh hoạt gia đình và cũng là để tạo không gian thoáng mát rất phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm.
Quan hệ xã hội: Đại bộ phận người Kinh sinh sống thành từng làng, dăm ba làng họp lại thành một xã. Trong làng thường có nhiều xóm, có xóm lớn tương đương với thôn và thôn Bắc Bộ gần tương tự như một ấp của Nam Bộ. Trước Cách mạng tháng Tám, mỗi làng có một tổ chức hành chính – tự quản riêng khá chặt chẽ. Những làng thủ công còn có tổ chức phường hội của những người cùng nghề nghiệp. Đặc biệt, trong làng, sự phân chia dân nội tịch và dân ngoại tịch (ngụ cư) được quy định rõ trong hương ước của làng. Lệ làng được quy định một cách tương đối toàn diện và chặt chẽ về các mặt hoạt động của làng buộc mọi người thừa nhận và thực hiện.
Gia đình: Gia đình của người Kinh hầu hết là những gia đình nhỏ gồm 2 hoặc 3 thế hệ theo chế độ phụ quyền nhưng phụ nữ vẫn giữ vai trò quan trọng nhất định trong gia đình.
Người Kinh có rất nhiều dòng họ, có những họ rất phổ biến như Nguyễn, Trần, Lê, Phạm, Vũ… dường như địa phương nào cũng có. Mỗi tộc họ thường có nhà thờ tổ riêng, họ lại chia ra làm nhiều chi phái và mỗi chi phái lại bao gồm nhiều nhánh. Mỗi nhánh lại bao gồm các anh em cùng bố mẹ, ông bà. Quan hệ họ nội được truyền giữ bền chắc qua nhiều đời. Anh em họ hàng (kể cả họ nội và họ ngoại) đều yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.
Trong việc cưới xin, người Kinh rất coi trọng tình yêu chân thành chung thủy. Dưới thời phong kiến thường là “cha mẹ đặt đâu còn ngồi đấy”, ngày nay nam nữ tự tìm hiểu. Để đi đến hôn nhân thành vợ thành chồng, nghi lễ cưới xin truyền thống ở người Kinh thường trải qua mấy
bước cơ bản sau:
Dạm: nhờ một người làm mối đến nhà gái ướm hỏi trước.
Hỏi: Sắp lễ vật sang thưa chuyện chính thức với gia đình và họ hàng nhà gái.
Cưới: Tổ chức lễ trình tổ tiên, ra mắt họ hàng làng xóm, tổ chức rước dâu về nhà trai.
Lại mặt: Cô dâu, chú rể về thăm lại nhà bố mẹ đẻ
(nhà gái).
Qua các bước này và dĩ nhiên trước đó phải qua đăng ký kết hôn thì đôi trai gái chính thức trở thành vợ thành chồng.
Thờ cúng: Thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng quan trọng
nhất của người Kinh. Bàn thờ được đặt ở nơi trang trọng nhất trong nhà: được cúng lễ vào các ngày giỗ, tết và các dịp tuần tiết trong năm. Tục thờ thổ công, táo quân, ông địa phổ biến ở các nơi. Rất nhiều gia đình thờ Thành hoàng, chùa thờ Phật, nơi thờ Đức Khổng Tử hay đền thờ phúc thần… Một bộ phận cư dân còn theo đạo Thiên chúa, Tin lành và các tôn giáo khác như Cao đài, Hòa hảo….
Lễ tết: Tết Nguyên đán là cái tết lớn nhất trong một năm. Sau tết âm lịch là các hội mùa xuân. Ngoài ra còn có nhiều lễ tết truyền thống khác trong một năm: Rằm tháng Giêng, tết Thanh minh, lễ Hạ điền, lễ Thượng điều, tết Đoan ngọ, rằm tháng Bảy, tết Trung thu, lễ cơm mới… Mỗi tết đều có ý nghĩa riêng và lễ thức tiến hành cũng khác nhau góp phần làm phong phú đời sống văn hóa tỉnh thần của người Kinh.
* Người Thái
Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.
Hoạt động sản xuất: Người Thái sớm đi vào nghề trồng lúa nước trong hệ thống thủy lợi thích hợp được đúc kết như một thành ngữ “mương, phai, lái, lịn” (khơi mương, đắp đập, dẫn nước, đặt máng) trên các cánh đồng thung lũng. Họ làm ruộng cấy một vụ lúa nếp, nay chuyển sang 2 vụ lúa tẻ. Họ còn làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu, cây thực phẩm và đặc biệt là bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải.
Đời sống: Ngày nay gạo tẻ đã trở thành lương thực chính song gạo nếp vẫn được coi là lương ăn truyền thống. Gạo nếp ngâm, bỏ vào chỗ, đặt lên bếp, đồ thành xôi. Trên mâm ăn không thể thiếu được món ớt giã hòa muối, tỏi, có rau thơm, mùi, lá hành… có thể thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng… gọi chung là chéo. Hễ có thịt các con
Sách liên quan
Donate Ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe
Nhằm duy trì website tồn tại lâu dài và phát triển, nếu bạn yêu thích Taiebooks.com có thể ủng hộ chúng tớ 1 ly cafe để thêm động lực nha.
Bạn cần biết thêm lý do để ủng hộ Taiebooks.com ?
- Website cần duy trì tên miền, máy chủ lưu trữ dữ liệu tải ebook và đọc online miễn phí.
- Đơn giản bạn là một người yêu mến sách & Taiebooks.com.